Lê Dinh:
- Ngày ấy quen nhau (1959)
- Tấm ảnh ngày xưa (1961)
- Ga chiều (1962)
- Hạnh phúc đầu Xuân (Hợp soạn với Minh Kỳ)
Minh Kỳ:
- Chỉ có một người
- Chuyến tàu hoàng hôn (Hợp soạn với Hoài Linh, 1962)
Anh Bằng:
- Lẻ bóng (1962)
- Đôi bóng (1963)
- Nửa đêm biên giới (1963)
- Đêm không ngủ (1964)
- Truyện tình Lan và Điệp (1964-1965)
- Truyện tình Trương Chi - Mỵ Nương (1965)
- Sầu lẻ bóng (1965)
Hoài An:
- Tình lúa duyên trăng (Lời: Hồ Đình Phương)
- Kỷ niệm nào buồn (1964)
- Tâm sự ngày Xuân (1965)
Y Vân:
- Đôi mái chèo trăng
- Cánh hoa thời loạn
- Những bước chân âm thầm
Phạm Thế Mỹ:
- Bến duyên lành
- Nắng lên xóm nghèo
- Đan áo mùa Xuân
- Những ngày xưa thân ái
- Trăng tàn trên hè phố
Anh Việt Thu:
- Hai vì sao lạc
- Như giọt Xuân rơi
Dzũng Chinh:
- Những đồi hoa sim (1964)
- Tha La xóm Đạo
Phạm Mạnh Cương:
- Loài hoa không vỡ
Lê Trực:
- Tiếng còi trong sương đêm
Tuấn Khanh:
- Quán nửa khuya (1959, hợp soạn với Hoài Linh)
Và rất nhiều bài Boléro khác được ra đời trong thời gian nầy. Nếu hiện nay là thời kỳ “bùng nổ hát nhạc Boléro” thì thập niên 60 có thể gọi là thời kỳ “bùng nổ sáng tác nhạc Boléro”. Số bài Boléro ra đời trong khoảng thời gian đầu (1954-1960) còn khiêm nhường, sang đầu thập niên 60 các nhạc sĩ hăng say sáng tác các bản nhạc theo thể điệu Boléro vì nó được quần chúng đón nhận nồng nhiệt (hợp với tâm tình tác giả và giọng ca lúc bấy giờ).
Năm 1960, thanh niên nam nữ Saigon điên đảo vì một bản Boléro ngoại quốc: “It’s Now or Never” do nam danh ca Elvis Presley trình diễn.
Sang năm 1961, lại thêm một phen “bấn loạn” vì bản “Histoire d’un amour” do nữ ca sĩ người Pháp Dalida truyền cảm hứng. Đây là hai bản nhạc Boléro thời thượng mà giới trẻ miền Nam đã thuộc nằm lòng, như thêm hương vị cho lòng yêu thích Boléro của khán giả Việt Nam.
Dân miền Nam trước 75 chưa đến 20 triệu người, số lượng nhạc sĩ ít hơn bây giờ rất nhiều. Thế mà chỉ vỏn vẹn 20 năm (1954-1975) các nhạc sĩ VNCH đã sáng tác hàng chục ngàn bản nhạc mà thể loại Boléro là chủ đạo. Ngày nay, trào lưu hát nhạc Boléro đã sáng tác từ nửa thế kỷ trước. Nó vẫn còn hợp thời, quá hợp thời, ý tình như nói thay cho lòng người hiện tại. Lịch sử đã có sự sắp xếp rất thuận lý và lý thú: Bùng nổ đặt nhạc Boléro đi trước, bùng nổ hát nhạc Boléro theo sau. Có những người vừa hát vừa cám ơn các nhạc sĩ trước kia đặt nhạc hay quá. Cám ơn! Cám ơn! Thật thán phục các nhạc sĩ ngày trước không chỉ ở nét nhạc mà còn ở lời ca.
Về nét nhạc thì từ âm giai thất cung (Do Re Mi Fa Sol La Si) của Tây Phương, thường thấy trong các bản nhạc tiền chiến, các nhạc sĩ dòng nhạc Boléro Việt Nam có khuynh hướng nghiêng về giai điệu ngũ cung (Hò Xự Xang Xê Cống) mang âm hưởng Dân ca, có một chút gì đó hơi hao hao với điệu lý, câu hò miền Nam:
“Mây trắng bay qua khi trăng dần lan
Muôn câu hò nhịp nhàng khắp thôn trang
Đoàn người say sưa vui tiếng hát vang
Lúa dâng sữa ngọt đậm tình ta với nàng…” (Trăng Về Thôn Dã của Hoài An & Huyền Linh)
Boléro từ Nam Mỹ khi du nhập vào Việt Nam thì nhịp điệu chậm hẳn lại để thích hợp với tính cách (tâm hồn, cách hát) của người Việt Nam. Boléro ở Cuba viết theo nhịp 3/4, sang Việt Nam các nhạc sĩ đã chuyển thành nhịp 4/4, và rồi nhạc Boléro Việt Nam đã khác rất nhiều so với Boléro nguyên thủy.
Nhưng nét đặc biệt nhất của Boléro Việt Nam là phần lời ca. Lời rất đời, nghe tới đâu hiểu tới đó, nghe tới đâu thấm tới đó. Nó nói lên tâm sự của từng người, nói lên hoàn cảnh đất nước bi đát vì chiến tranh, nói luôn hoàn cảnh nghiệt ngã của tầng lớp thanh niên phải đối diện với chia ly, mất mát, chịu đựng. Nó trở thành dòng nhạc lớn của Việt Nam vì nó rất Việt Nam.
Ngày ấy ở miền Nam, giữa trưa trời nắng gắt, bác nông phu trên đồng cạn, dưới đồng sâu, làm sao có thể hát một câu nhạc cổ điển Tây Phương cho trâu đi bừa? Nhưng bác rất dễ dàng buông ra vài câu Boléro mùi mẫn:
“Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên
Hương lúa ngọt tình quê thêm trìu mến…” (Nắng Lên Xóm Nghèo của Phạm Thế Mỹ)
Còn nữa, ngày anh lên đường ra tiền tuyến, đôi tình nhân bịn rịn chia tay, xót thương cho đời nhau, còn gì ray rứt hơn:
“Xe lăn êm êm lúc ga chiều sắp lên đèn
Mưa thu bay bay vắt ngang trời ướt vai mềm
Hoàng hôn dần xuống
Người trai vì nước đi xây tình quê hương…” (Chuyến Tàu Hoàng Hôn của Minh Kỳ & Hoài Linh)
Bất cứ lúc nào, nơi nào (ngay cả trong tiệc cưới, bên bàn nhậu…) người Việt Nam vẫn thường hát nhạc Boléro. Âm nhạc Việt Nam buồn vì lịch sử Việt Nam buồn: Do chiến tranh, và bị đô hộ của ngoại bang. Nếu chê bai nhạc Boléro tầm thường, lời lẽ không tinh tế, sâu sắc, là nhạc sến thì tội nghiệp cho dân Việt Nam. Họ có đòi hỏi gì cao siêu đâu, họ rất bình dị. Nhưng hoàn cảnh đất nước không may, đời sống họ vấp phải nhiều khốn khó. Họ cần đến âm nhạc để được xoa dịu, vỗ về, họ cần đến Boléro để bày tỏ nỗi niềm tâm sự.
Giờ đây, sau hơn 40 năm bị “bức tử” (kể từ năm 1975), dân Việt Nam mới đòi lại được quyền hát Boléro và làm cho nó hồi sinh dù chưa hoàn toàn, có những bản nhạc lính vẫn còn bị cấm. Nhìn giới trẻ thi nhau hát Boléro (rất khó khăn, hạn chế về chọn bài, lời ca) trong các cuộc thi được tổ chức liên tục trong nước mới thấy rõ bản chất mộc mạc, hồn nhiên trong tâm hồn người Việt Nam: Có sao nói vậy. Trong trường hợp nầy, tôi suy nghĩ hoài câu “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nghệ thuật đã luôn ở bên cạnh để nâng đỡ tinh thần, là niềm an ủi rất lớn giúp dân Việt Nam vượt qua bao gian khổ trong chiến tranh trước 75 và đối diện với những bất cập trong hiện tại. Nghệ thuật cao quý như vậy sao gọi là sến? Các nhạc sĩ tiên phong khai phá dòng nhạc Boléro Việt Nam có cảm thấy nao lòng hay không?!